Linh chi là một loại thảo dược có tên khác nhau tuỳ nơi sinh trưởng. ở Trung Quốc gọi bằng nhiều tên đẹp như : Trường sinh thảo, Thần tiên thảo..., nhưng hiện nay người ta thường gọi là nấm Linh chi.
Linh chi là một loại thảo dược có tên khác nhau tuỳ nơi sinh trưởng. ở Trung Quốc gọi bằng nhiều tên đẹp như : Trường sinh thảo, Thần tiên thảo..., nhưng hiện nay người ta thường gọi là nấm Linh chi.
Tuỳ miền núi non sinh trưởng mà có màu sắc, hình dạng khác nhau như Thanh chi sinh ở núi Thái Sơn, Bạch chi sinh ở Hoa Sơn, Hoàng chi sing ở Tung Sơn, Tử chi sinh ở Cao Hạ Sơn... gọi chung là “Chư chi”. Linh chi có tên khoa học là Ganoderma lucidum.
Từ ngàn năm trở lại đây, Linh chi được coi là một loại dược phẩm quý hiếm nhất và cũng là loại thực phẩm bổ dưỡng mang nhiều mầu sắc thần thoại nhất... Người xưa cho nó là loại thực phẩm Thần tiên, con người phải có lòng thành tín, được thần tiên vui lòng ban cho thì mới có thể tìm gặp được (Theo Bản thảo cương mục). Các nước như Triều Tiên, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thái Lan, Việt Nam... người ta đã thật sự sử dụng rộng rãi nó hơn vài thập kỷ nay.
Linh chi cổ có hai dạng: Loại mọc hoang ngoài thiên nhiên, và một dạng nhân tạo. Theo kinh nghiệm cổ truyền thì tuỳ phong thổ mỗi vùng mà có giá trị khác nhau. Linh chi Hàn quốc hiện nay được coi là có giá trị lớn hơn. Bên cạnh những dược tính giống nhau, các loại Linh chi tuỳ theo màu sắc, mùi vị mà có tính chất thiên thắng, mạnh yếu khác nhau; sự thiên thắng này cũng thuộc phạm vi tương quan giữa mầu sắc với ngũ hành và tạng phủ trong cơ thể. Tỷ như Hắc chi vị mặn thiên về ích thận khí, lợi thuỷ đạo, trị lung phế (bí tiểu). Thanh chi chua thiên bổ can khí, sáng mắt, Tử chi là loại thông dụng hiện nay, vị ngọt thiên ích tinh, cường cân cốt, lợi quan tiết (khớp), bảo thần, hảo nhan sắc, trị hư lao, trị điếc, trị trĩ.... Các loại khác cũng có đủ những đặc tính đó, nên không nhất thiết phải tìm cho đủ các loại nấm để điều trị cho từng bệnh nhân. Tuy nhiên nếu có điều kiện dùng được loại có giá trị thích nghi vẫn tốt hơn, vì nồng độ hoạt chất của nó phong phú hơn.
Tác dụng dược lý của Linh chi:
Theo những tài liệu cổ như Bản thảo cương mục (của Lý Thời Trần), Thần nông bản thảo, Trung dược học... Linh chi đã được xếp vào loại Thượng đẳng dược. Các loại Linh chi đều có tính chất bổ ích khí huyết, bồi dưỡng ngũ tạng suy nhược hư lao, ích trí, dưỡng tâm, an thần, bình suyễn, tăng trí tuệ, dùng trị các bệnh thuộc ngũ tạng, lục phủ, cơ nhục, xương khớp..., dùng lâu sẽ được “diên niên ích thọ”, thân thể nhẹ nhàng, tinh thần hoà lạc, sảng khoái.
Linh chi bình hoà vô độc, nên dùng một thời gian dài liên tục mới thấy hiệu quả rõ rệt. Theo những nghiên cứu gần đây trên thế giới, Linh chi có những đặc tính chung sau đây :
Cải thiện sự hấp thu chuyển hoá trong dinh dưỡng. Điều hoà chức năng tạng phủ.
Tăng cường sự thích nghi của cơ thể đối với những biến động trong môi trường sống.
Tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. Kể cả các bệnh nan y như ung thư...
Giải độc toàn thân, giúp cơ thể thải nhanh các chất độc, kể cả các kim loại nặng, chất độc hoá học, độc của các loại khuẩn... Bảo vệ cơ thể, chống ảnh hưởng các tia chiếu xạ.
Cân bằng nội tiết tố trong cơ thể, chống viêm, chống dị ứng...
Nâng cao tuổi thọ, bổ não, chống lão hoá của tế bào nhất là tế bào não, nên được dùng điều trị chứng kém trí nhớ, hội chứng lú lẫn của tuổi già.
Linh chi không có độc tính, không gây tác dụng phụ, dù cho dùng thời gian dài, lại không tương kỵ với các dược liệu Đông, Tây y khác.
ứng dụng lâm sàng:
Điều trị các bệnh viêm gan: Viêm gan, gan nhiễm mỡ, ngăn chặn và điều trị xơ gan.
Điều trị các bệnh về hô hấp: Điều trị và ngăn chặn các cơn hen suyễn do di truyền hoặc do môi trường. Trị viêm phế quản mạn tính. Bồi bổ cho bệnh nhân laophổi, u xơ phổi.
Các bệnh về tuần hoàn: Bổ tim, thông mạch. Điều trị xơ cứng mạch máu. Cao huyết áp (cần dùng thời gian dài mới hữu hiệu). Động mạch nhiễm mỡ. Trị chứng Cholesterol máu cao (làm tan mỡ bám trong thành mạch).
Các bệnh về tiêu hoá : Điều trị rối loạn tiêu hoá, loét dạ dầy, tá tràng, viêm đại tràng, kích thích tiêu hoá, kích thích ăn uống ngon miệng. Ngăn ngừa sự hình thành và phát triển khối u.
Các bệnh về hệ thống bài tiết: Điều trị tiểu đường, sỏi thận , bí tiểu tiện, táo bón...
Các bệnh về hệ thống thần kinh: Điều trị suy nhược thần kinh, mất ngủ kéo dài, ngủ không ngon giấc, mộng mị hoang tưởng, suy nhược sinh lý, di, mộng tinh.
Các di chứng tai biến mạch máu não. Nhược cơ, trị các bệnh về khớp, thần kinh... Chống đau nhức gân xương.
Các bệnh ung thư, u bướu: Trị bệnh xơ cứng bì, bệnh Luput ban đỏ, ban trọc bướu cổ. Lượng Polysacharit (chất đa đường) trong Linh chi có chức năng chống ung thư, điều chỉnh miễn dịch, chống lão hoá... Ngoài ra còn nhờ các chất Triterpen, Germanium... nên có thể điều trị bệnh ung thư ở mọi thời kỳ, vì nó có chức năng ức chế, phá hoại, ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, thúc đẩy sự suy vong của chúng. Có thể dùng một cách đơn độc, hoặc dùng hỗ trợ với xạ trị, hoá trị hoặc phẫu thuật, tăng hiệu lực chữa lành cho những phương pháp này và giảm thiểu các tác dụng phụ của nó, như mệt mỏi tiều tuỵ, gầy mòn, chán ăn, đau nhức mất ngủ... phòng ngừa sự tái phát di căn sau phẫu thuật (Theo nghiên cứu chế độ ăn uống thảo mộc trị bệnh của Ming De Men, Y học Nhiệt đới / Hoa Kỳ ung thư tự nhiên liệu pháp của Hoàng Diễn Cường và cộng sự / Trung Quốc).
Linh chi có nhiều chất Germanium hữu cơ hơn các loài thảo mộc khác (cao gấp 5 đến 8 lần Nhân sâm). Chất này giúp khí huyết lưu thông, các tế bào hấp thu oxi tốt hơn. Chất Germanium còn là một loại bán dẫn, nó có thể điều chỉnh hiệu điện thế điển hình cao hơn hiệu điện thế bình thường, vì thế nó có thể làm sạch hiệu thế ung thư trong cơ thể (theo Ming De Men TM/Hoa Kỳ).
Tại Hoa Kỳ nhiều Viện bào chế đã chiết xuất Linh chi lấy tinh chất làm thành một dược liệu dưới dạng cao khô, có tên là China Ganoderma lucidum Extract, để đặc trị ung thư rất có hiệu quả, nhưng giá thành lại quá cao so với các nước đang phát triển. Theo kinh nghiệm lâm sàng thì dùng cách uống trực tiếp nước sắc hoặc bột Linh chi vẫn có hiệu quả.
Đối với một số bệnh nhân nhiễm HIV: Bệnh viện The Quanyn Clinic ở San Francisco đã điều trị một số bệnh nhân nhiễm HIV đã có những kết quả tích cực bước đầu (1978). Được cơ quan quản lý Thực Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ cho phép sử dụng trong khi chờ các loại thuốc khác công hiệu hơn ra đời (Theo tài liệu của Thạc sĩ Cỗ Đức Trọng sưu tập).
Cách dùng:
Mỗi ngày từ 10 đến 15g, cách dùng đơn giản là bẻ nhỏ nấu nước uống thay trà cho đến khi nước sắc còn màu lợt, vị nhạt. Hoặc bỏ vào bình thuỷ tinh chế nước sôi vào uống trong ngày.
Trên thị trường hiện nay có nhiều dạng: Linh chi nguyên nấm, hoặc phiến, (xắt lát) hay tán bột, Trung Quốc làm thành viên nang đông khô (Capsule), Hàn Quốc kết hợp với Nhân sâm dưới dạng viên nang. Hoa Kỳ bào chế thành cao khô đóng gói. Việt Nam phối hợp với Nhân sâm làm trà Linh chi Nhân sâm... Có thể dùng Linh chi nấu hầm với thịt cá, hoặc với các loại nấm hay thảo mộc khác (ở người kiêng ăn thịt cá), để bồi dưỡng cơ thể suy nhược, nhất là bệnh nhân ung thư.
Các lưu ý cần thiết:
Theo kinh điển : Chư chi thuộc nhóm bổ khí, tính bình, riêng Tử chi ôn, coi như một dương dược, nhưng Ohsawa (Nhật), căn cứ trên màu sắc và môi trường sinh trưởng, cho Linh chi là loại thịnh âm, và theo kinh nghiệm lâm sàng, thì nên cẩn thận với những người hư hàn, dùng có thể bị phân nhão. hoặc tiêu chảy, tuy không ảnh hưởng gì đến hiệu lực điều trị, có thể khắc phục bằng cách giảm liều lượng, hoặc gia năm ba lát gừng nướng, hoặc thêm Nhân sâm sao gừng để trung hoà âm tính, dương hóa Linh chi.
Chúng tôi đã có năm mươi năm thừa kế, nhận thấy trên thực tế lâm sàng đôi khi khác với kinh điển, nên chúng ta cũng cần quan tâm đến việc sử dụng thuốc men và ăn uống với con người ngày nay, để hợp với sự thiên thắng âm dương trong mỗi cơ thể.
Để có thể dùng thuốc một cách hợp lý, người bệnh nên trực tiếp liên hệ với thầy thuốc để họ tuỳ giai đoạn bệnh biến mà nắm được sự thiên lệch của âm dương, hàn nhiệt, hư vong trong thể trạng mỗi người mà hướng dẫn chính xác và theo dõi sít sao, hầu có thể nâng cao hiệu quả điều trị.